Bài 1:   ĐÁNH GIÁ KINH TẾ VÀ NHỮNG PHƯƠNG PHÁP QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ

Chương I

ĐỀ RA QUYẾT ĐỊNH ĐẦU TƯ

1.1. Giới thiệu về phân tích đầu tư

          Việc đánh giá kinh tế các phương án đầu tư liên quan tới việc đánh giá một cách có hệ thống khả năng sinh lời tương đối của các phương án đầu tư. Nếu không áp dụng các phương pháp hệ thống và định lượng để so sánh tính kinh tế của các phương án đầu tư thì xét quan điểm kinh tế sẽ có những sự lựa chọn sai lầm trong các quyết định đầu tư. Lấy thí dụ khi phân tích các phương án đầu tư trong một tình huống đầu tư cụ thể, các phương án được em xét có thể có sự khác nhau về chi phí và lợi nhuận hay sự tiết kiệm và thời điểm có các chi phí và lợi nhuận. Sự khác nhau cũng có thể có trong thời gian hoạt động của dự án, thuế và tác động của trượt giá và lạm phát lên chi phí và doanh thu dự kiến. Nếu không áp dụng một phương phá có hệ thống để lượng hoá các tác động kinh tế của các yếu tố trên thì sẽ rất khó đánh giá một cách chính xác phương án nào mang lại hiệu quả kinh tế lớn nhất.

          Từ thời có các công trình của Adam Smith, người ta đã thừa nhận rằng việc tích tụ tư bản là mục tiêu chủ yếu trong đầu tư của các cá nhân, công ty và xã hội tư bản nhằm cải thiện mức sống. Ở cuối chương này ta sẽ xem xét tới các yếu tố không phải kinh tế liên quan tới phần lớn các quyết định đầu tư, tuy nhiên từ khía cạnh kinh tế chúng ta giả thiết rằng việc tối đa hoá sự tích tụ tư bản (hay giá trị của các tài sản có thể chuyển đổi được thành tư bản) là mục tiêu kinh tế của các khoản đầu tư. Trong thời gian 10 năm kể từ cuối những năm 80 tới cuối những năm 90 người ta ước tính rằng tổng số vốn đầu tư tại Hoa Kỳ sẽ lớn hơn tổng số tiền đã được đầu tư trong suốt 200 năm lịch sử Hoa Kỳ. Tầm quan trọng của các kỹ thuật đánh giá kinh tế thích hợp trong việc xác định phương thức hiệu quả nhất để chi tiền là rất rõ ràng dù ta xem xét vấn đề này từ quan điểm cá nhân, công ty hay chính phủ.

          Cuốn sách này trình bày việc xây dựng và ứng dụng các kỹ thuật đánh giá kinh tế có thể được dùng để nâng cao khả năng của bạn trong việc đề ra các quyết định đầu tư chuẩn xác xét từ khía cạnh kinh tế. Đương nhiên điều đó không có nghĩa là việc áp dụng những kỹ thuật này sẽ cho phép bạn luôn luôn đưa ra được những quyết định kinh tế đúng. Do ảnh hưởng của rủi ro và bất trắc, bao cả việc trượt giá và lạm phát của chi phí và doanh thu nên không thể xây dựng được các kỹ thuật đánh giá đảm bảo chắc chắn sự thành công trong việc đề ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên bằng cách sử dụng một hay nhiều kỹ thuật đánh giá kinh tế được trình bày và đề xuất trong cuốn sách này bạn sẽ luôn có khả năng thực hiện việc ra quyết định kinh tế tốt hơn là khi bạn làm điều đó mà không dùng tới các kỹ thuật đó. Tất nhiên kết quả phân tích hoàn toàn tuỳ thuộc vào chất lượng của các số liệu đầu vào về chi phí và doanh thu. Tác động của rủi ro và bất trắc làm cho người ta không thể biết một cách chắc chắn là liệu bộ số của một tình huống đầu tư được đề xuất có chính xác hay không. Tất nhiên điều này có nghĩa là chúng ta sẽ không thể tin chắc vào các kết quả phân tích kinh tế trên cơ sở các dữ liệu đó. Thậm chí ngay cả khi xác suất thành công hay thất bại đã được đưa vào quá trình phân tích như trình bày trong chương 6, chúng ta vẫn không có các kết quả phân tích chắc chắn trong bất kỳ tình huống đầu tư cụ thể nào. Tuy nhiên ngay cả trong các điều kiện đánh giá có độ bất trắc lớn thì việc áp dụng các kỹ thuật đánh giá kinh tế được trình bày trong cuốn sách này cho phép người ra quyết định có được sự cảm nhận tốt hơn về các rủi ro và bất trắc tường đối giữa các phương án. Thông tin này cùng với các kết quả đánh giá kinh tế thể hiện trong những con số thường tạo ra cho người ra quyết định một vị thế tốt hơn để đề ra quyết định đúng đắn so với khi không sử dụng các phương pháp hệ thống.

          Đánh giá các phương án đầu tư nhằm lựa chọn các dự án đầu tư mang lại lợi nhuận tối đa cho một đô la đầu tư là mục tiêu then chốt của các nhà quản lý công ty hay các nhà đầu tư thành đạt. Để đạt được mục tiêu này một cách đầy đủ, các nhà quản lý hay các cá nhân cần phải làm quen với các nguyên tác đánh giá kinh tế và các phương pháp đưa ra quyết định tạo cơ sở cho việc đánh giá định lượng các dự án kỹ thuật và các cơ hội đầu tư nói chung.

          Phần lớn các quyết định kinh doanh được đưa ra bằng cách lựa chọn phương án được coi là tốt nhất trong số các phương án loại trừ. Do đó các vấn đề trong lĩnh vực này được gọi là “các vấn đề lựa chọn loại trừ
”. Trong nhiều tình huống kinh doanh các quyết định được đưa ra theo cảm tính vì không có được các phương pháp ra quyết định một cách có hệ thống và mang tính định lượng để cân nhắc các phương án. Tuy vậy đó không là trường hợp cân nhắc các khía cạnh kinh tế liên quan tới phần lớn các quyết định đầu tư. Có các phương pháp đề ra quyết định kinh tế một cách có hệ thống để đánh giá các dự án đầu tư riêng rẽ và so sánh các phương án đầu tư khác nhau. “Những ý tưởng thoáng qua của lãnh đạo” không nên là cơ sở đi đến quyết định về những sự khác biệt có tính kinh tế giữa các phương án đầu tư. Trong thời đại mà các tình huống đầu tư ngày càng trở lên phức tạp nếu muốn thành công về dài hạn thì cần phải lựa được các tiêu thức đánh giá kinh tế cơ bản và áp dụng chúng trong việc lựa chọn các phương án đầu tư. Cuốn sách này trình bày các tiêu thức đánh giá đặt cơ sở trên tiền đề là việc tối đa hoá trị giá tương lai của những đồng đô la bỏ ra đầu tư. Hay nói cách khác, các phương pháp được xây dựng và minh họa trong cuốn sách này sẽ cho phép người ta xác định được trình tự hành động để sử dụng nguồn lực hạn chế một cách kinh tế nhất. Nói khái quát đây là việc trả lời cho câu hỏi “Liệu đầu tư tiền vào khoản đầu tư này là tốt hơn hay số tiền đó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn nếu ta đầu tư nó vào một phương án đầu tư khác?”.

1.2. “Kinh tế kỹ thuật” và “đánh giá kinh tế”

          Kỹ thuật và công nghệ khoa học bằng cách này hay cách khác tạo ra cơ sở cho tuyệt đại số các cơ hội đầu tư trong thế giới ngày nay. Thậm chí mong muốn kinh tế của các khoản đầu tư vào đất đai cũng thương liên quan tới các công nghệ kỹ thuật làm cho đất đai sau vài năm trở nên có giá trị hơn qua việc xây dựng các cư xá, các công viên hay nhà máy. Trong xã hội tư bản thì các đề án kỹ thuật cũng như tất cả các dạng đề án đầu tư khác phải được đánh giá về mặt chi phí và xem liệu nó có đáng giá hay không trước khi chúng được thực hiện. Ngay cả trong các hoạt động công cộng người ta phải thấy rõ ràng các lợi ích lớn hơn chi phí bỏ ra trước khi thông qua các khoản chi. Do đó, thuật ngữ “kinh tế kỹ thuật” được dùng rộng rãI trong các sách vở nói chung dùng để chỉ việc “đánh giá kinh tế” của tất cả các dạng thức đầu tư. Trong cuốn sách này hai thuật ngữ “kinh tế kỹ thuật” và “đánh giá kinh tế” được coi là đồng nghĩa. Người ta không cần phải là một kỹ sư mới có khả năng áp dụng các nguyên tắc kinh tế kỹ thuật (hay đánh giá kinh tế) để đánh giá các phương án đầu tư. Một điều kiện tiên quyết mà ai cũng biết của các công trình kinh tế thành công là tính khả thi về mặt kinh tế. Điều kiện tiên quyết này đúng cho cả các dự án đầu tư kỹ thuật lẫn phi kỹ thuật do đó các thuật ngữ “kinh tế kỹ thuật” và “đánh giá kinh tế” có ý nghĩa và tầm quan trọng không chỉ đối với các kỹ sư mà còn cả với các nhà ngân hàng, các chuyên gia kế toán, các nhà quản lý kinh doanh tới việc đánh giá kinh tế các phương án đầu tư. Sách này được viết cho những người đó.

1.3. Đề ra quyết định.

          Peter Drucker trong các sách giáo khoa về quản lý của mình đã nói rằng việc đề ra quyết định có 5 giai đoạn khác biệt:

1. Xác định vấn đề

          2. Phân tích vấn đề

          3. Đề ra các giải pháp

          4. Quyết định chọn giải pháp tốt nhất

          5. Biến quyết định đó thành hành động có hiệu lực

          Các bước đề ra quyết định đánh giá kinh tế cũng như việc đề ra quyết định này áp dụng cho việc ra quyết định quản lý nói chung. Việc xác định các vấn đề liên quan tới sự đánh giá kinh tế một cách rõ ràng, cũng quan trọng trong phân tích kinh tế như trong bất kỳ tình huống nào khác cần phải có quyết định. Trong bất kỳ tình thế nào cần ra quyết định, cần phải đặt ra các câu hỏi chuẩn xác trước khi có được những câu trả lời cần thiết. Việc phân tích vấn đề hay các câu hỏi là bước tiếp theo trong quá trình ra quyết định để phân tích kinh tế cũng như các quyết định quản lý nói chung. Điều này sẽ dẫn tới bước ba của việc ra quyết định xem liệu các giải pháp hay phương án đầu tư khác có tốt không. Việc phân tích các phân tích đầu tư sự lựa chọn kinh tế tốt nhất và có hành động để thực hiện sự lựa chọn đó....

Trên đây chúng tôi chỉ trích 1 phần bài viết của PGS Lê Kiều; toàn bộ bài viết trên đều được Thầy biên soạn và tổng hợp trong SỔ TAY KỸ SƯ XÂY DỰNG


Bài 2:  QUẢN LÝ RỦI RO PHƯƠNG THỨC HIỆN ĐẠI NHẰM THÀNH CÔNG TRONG QUẢN LÝ DỰ ÁN.

PHẦN TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ RỦI RO SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

 

1.1. TIẾP CẬN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU RỦI RO

1.1.1. KHÁI NIỆM RỦI RO

            Trong cuộc sống, tất cả chúng ta đều phải đương đầu với những rủi ro, đó là điều không thể tránh khỏi.

          Rủi ro là những bất trắc xảy ra ngoài mong muốn của đối tượng sử dụng và gây ra những thiệt hại về thời gian, vật chất, tiền của, sức khỏe, tính mạng con người.

          Có rất nhiều loại rủi ro khác nhau và do rất nhiều các nguyên nhân khác nhau gây ra. Có những rủi ro do môi trường tự nhiên như rủi ro do lũ lụt, động đât, khô hạn, gây thiệt hại lớn về của cải, vật chất và tính mạng con người; có những rủi ro do môi trường kinh tế – xã hội, chính trị gây ra như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động của con người; có những rủi ro do bản thân hoạt động của con người gây ra như rủi ro do tai nạn hoặc rủi ro thua lỗ do trình độ quản lý, trình độ kinh doanh yếu kém; có những kỹ thuật lạc hậu dẫn đến hậu quả là năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao hoặc có những rủi ro do tiến bộ khoa học kỹ thuật gây rồi như rủi ro hao mòn vô hình quá lớn, không kịp thu hồi vốn đầu tư (VĐT) trong trang thiết bị máy móc thiết bị và tài sản cố định (TSCĐ), các rủi ro này thường xuất hiện trong lĩnh vực sản xuất đặc biệt là lĩnh vực sản xuất xây dựng (XD). Hầu hết các rủi ro xảy ra đều nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người.

          Nói đến rủi rủi ro, bất định không thể không nhắc tới Frank Knight (1895-1973) – nhà khoa học, nhà kinh tế học người Mỹ. Ông có đóng góp quan trọng vào phương pháp luận của kinh tế học cũng như đối với việc định nghĩa và giải thích chi phí xã hội. Đóng góp lớn nhất của ông đối với kinh tế là tác phẩm rủi ro, sự không chắc chắn và lợi nhuận (1921). Có thể coi ông là trong những nhà khoa học hiện đại đầu tiên nghiên cứu sâu về rủi ro và bất định. Mục tiêu cơ bản của ông là giải thích sự điều tiết lợi nhuận trong kinh doanh dưới dạng một hàm số của rủi ro bất định. Vào thời kỳ của ông, đây không phải là một vấn đề mới mà ngược lại nó đã được một nhà khoa học trước đó nói tới khi nghiên cứu về mối quan hệ trong sở hữu đất đai. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại phát triển, sự nghiên cứu của Frank Knight đã có tác dụng gắn kết những vấn đề về mặt lý thuyết giữa kinh tế vĩ mô và kinh tế vĩ mô. Ban đầu, khi đưa ra những khái niệm và sự phân biệt giữa rủi ro và bất định, F.Knight đã nhận được sự phản đối gay gắt của các nhà khoa học thời đó (do bối cảnh của nền kinh tế lúc đó) nhưng dần dần các nghiên cứu của ông đã có sức thuyết phục lớn và được thừa nhận do đã giải thích được mối liên hệ về mặt lý thuyết giữ thị trường và các xí nghiệp kinh doanh .

          Có rất nhiều khái niệm khác nhau của các nhà khoa về rủi ro nhưng chủ yếu được phân thành hai nhóm.

          Theo một số nhà khoa học, rủi ro là tình trạng xảy ra một số biến cố bất lợi nhưng có thể đo lường được bằng xác suất. Cụ thể:

          Theo Frank Knight, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được .

          Theo Irving Pfeffer, rủi ro là những sự ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất .

          Theo Marilu Hurt McCarty, rủi ro là tình trạng trong đó các biến cố xảy ra trong tương lai có thể xác định được .

          Theo các học giả Trung Quốc, rủi ro là tình hình sự việc phát sinh theo một xác suất nhất định hoặc sự việc lớn thay hay nhỏ được bố trí theo một xác suất. Nhân tố chủ yếu của rủi ro trong sản xuất là không xác định của tương lai. Người đầu tư đối mặt với rủi ro là tính có thể lãi hoặc lỗ. Ngoài ra, đầu cơ đơn thuần cũng sẽ dẫn đến rủi ro. Lợi nhuận rủi ro là một loại lợi nhuận vượt mức.

          Một số nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng rủi ro là hoàn cảnh trong đó một sự kiện xảy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy mô của sự kiện đo có một phân phối xác suất. Một dự án đầu tư có thể rủi ro ở chỗ có một phần mười khả năng (xác suất 0,1) là bị thua lỗ, có năm phần mười khả năng đạt một mức lợi nhuận nào đó và có bốn phần mười khả năng đạt một mức lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn rủi ro và xác suất vì rủi ro là sự kết hợp giữa xác suất và quy mô của sự kiện. Nếu một dự án đầu tư có khả năng 1/10 là thua lỗ và có thể dẫn đến một sự thua lỗ nặng nề thì đây là một rủi ro. Tuy nhiên cũng có 1/10 khả năng sinh lợi nhưng mức độ thua lỗ lại nhỏ hơn thì đó không là rủi ro mà chỉ là một xác suất sinh lời .

          Bên cạnh những khái niệm kể trên, một số nhà khoa học khác lại định nghĩa rủi ro với sự chú trọng đến kết quả được mà không chú ý đến xác suất xảy ra. Cụ thể:

          Theo Allan Willet, rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi .

          Theo A.HrThur Williams, rủi ro là sự biến động tiền ẩn ở kết quả.

          Theo Georges Hirsch, khái niệm rủi ro gắn liền với khả năng xảy ra của một số biến cố không lường trước hay đúng hơn là một biến cố mà ta hoàn toàn không chắc chắn (xác suất xảy ra <1). Nói cách khác, rủi ro ứng với khả năng có sai lệch giữa một bên là những gì xảy ra trong thực tế và một bên là những gì được dự kiến từ trước hoặc được dùng làm hệ quy chiếu, mà sai lệch nàu lớn đến mức khó chấp nhận được hoặc không chấp nhận được.

          Trong các khái niệm kể trên, hầu hết đều quan niệm rủi ro không có tính chất đối xứng mà chỉ hiểu theo nghĩa có hại như rủi ro hỏa hoạn, rủi ro tai nạn… tuy nhiên, ở một số nước (điển hình là Mỹ), người ta lại có cách hiểu “lạc quan” hơn và cho rằng rủi ro có tính chất đối xứng, trong đó có cả hai khả năng thắng và bại, được và thua đều được xem xét như nhau. Điều này thể hiện trong lý thuyết trò chơi. Chẳng hạn trường hợp một người đầu tư mua cổ phiếu của một công ty nào đó tức là họ đã chấp nhận một rủi ro nhất định. Nếu công ty đó hoạt động tốt, họ có nhiều cơ hội thắng nhưng nếu công ty đó thua lỗ nhiều, họ sẽ có nguy cơ thất bại. Hầu hết các rủi ro xảy ra đều nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người.

          Mặc dù có một số quan niệm khác nhau về rủi ro nhưng trong phạm vi chuyên đề này chỉ tập trung nghiên cứu các rủi ro làm thay đổi kết quả theo chiều hướng bất lợi.

          Trên cơ sở các khái niệm kể trên, có thể đưa ra một khái niệm về rủi ro như sau: Rủi ro là tổng hợp những sự kiện ngẫu nhiên tác động lên sự vật, hiện tượng làm thay đổi kết quả của sự vật, hiện tượng (thường theo chiều hướng bất lợi) và những tác động ngẫu nhiên đó có thể đo lường được bằng xác suất.

          1.1.2. Phân loại rủi ro

Để có thể nhận biết và quản lý các rủi ro một cách có hiệu quả, người ta thường phân biệt các rủi ro tuỳ theo mục đích sử dụng trong phân tích các hoạt động kinh tế.

1. Theo tính chất khách quan của rủi ro, người ta thường chia ra: rủi ro thuần tuý và rủi ro suy tính (rủi ro suy đoán) (Pure Risks and Speculative Risks).

+ Rủi ro thuần tuý là loại rủi ro tồn tại khi có nguy cơ tổn thất nhưng không có cơ hội kiếm lời, đó là loại rủi ro xảy ra liên quan tới việc tài sản bị phá huỷ. Khi có rủi ro thuần tuý xảy ra thì hoặc là có mất mát tổn thất nhiều, hoặc là có mất mát tổn thất ít và khi rủi ro thuần túy không xảy ra thì không có mất mát tổn thất. Hầu hết các rủi ro chúng ra gặp phải trong cuộc sống và thường để lại những thiệt hại lớn về của cải vật chất và có khi cả tính mạng con người đều là rủi ro thuần tuý. Thuộc loại rủi ro này có rủi ro do hoả hoạn, lũ lụt, hạn hán, động đất….

+ Rủi ro suy tính (rủi ro suy đoán) là rủi ro tồn lại khi có một nguy cơ tổn thất song song với một cơ hội kiếm lời. Đó là loại rủi ro liên quan đến quyết định lựa chọn của con người. Thuộc loại này là các rủi ro khi đầu tư vào sản xuất kinh doanh (SXKD) trên thị trường.

Người ta có thề dễ dàng chấp nhận rủi ro suy tính nhưng hầu như không có ai sẵn sàng chấp nhận rủi ro thuần tuý.

Nhận xét: Việc phân chia rủi ro thành rủi ro thuần tuý và rủi ro suy tính có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn kỹ thuật để đối phó, phòng tránh rủi ro. Đối với rủi ro suy tính, người ta có thể đối phó bằng kỹ thuật Hedging (rào cản) còn rủi ro thuần tuý được đối phó bằng kỹ thuật bảo hiểm.

Tuy nhiên, hầu hết trong các rủi ro đều chứa cả hai yêu tố: thuần tuý và suy tính và trong nhiều trường hợp ranh giới giũa hai loại rủi ro này còn mơ hồ.

2/ Theo hậu quả để lại cho các hoạt động của con người, người ta chia thành rủi ro số đông (rủi ro toàn cục, rủi ro cơ bản) và rủi ro bộ phận (rủi ro riêng biệt).

+ Rủi ro số đông là các rủi ro gây ra các tổn thất khách quan theo nguồn gốc rủi ro và theo kết quả gây ra. Những tổn thất này không phải do cá nhân gây ra và hậu quả của nó ảnh hưởng đến số đông con người trong xã hội. Thuộc loại này bao gồm các rủi ro do chiến tranh, lạm phát, thất nghiệp, động đất, lũ lụt....

+ Rủi ro bộ phận là các rủi ro xuất phát từ các biến cố chủ quan của từng cá nhân xét theo cả về nguyên nhân và hậu quả. Tác động của loại rủi ro này ảnh hưởng tới một số ít người nhất định mà không ảnh hưởng lớn đến tòan xã hội. Thuộc loại này bao gồm các rủi ro do tai nạn (tai nạn giao thông, tai nạn lao động, hoả hoạn,…) do thiếu thận trọng trong khi làm việc cũng như trong cuộc sống (rủi ro do mất trộm....).

Nhận xét: Việc phân biệt hai loại rủi ro này có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức xã hội, nó liên quan đến việc có thể hay không thể chia sẻ bớt những rủi ro trong cộng đồng xã hội. Nếu một rủi ro bộ phận xảy ra, các tổ chức hay cá nhân khác có thể giúp đỡ bằng những khoản đóng góp vào các qũy trợ giúp nhằm chia sẻ bớt những rủi ro nhưng khi rủi ro số đông xảy ra thì việc chia sẻ rủi ro bằng cách trên là không có tác dụng.

Tuy nhiên, việc phân loại rủi ro theo cách này cũng chưa được rõ ràng lắm vì rủi ro có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác tuỳ theo sự thay đổi của khoa học kỹ thuật và khung cảnh xã hội. Ví dụ lũ lụt gây thiệt hại nghiêm trọng ở một quốc gia nào đó là rủi ro số đông đối với quốc gia đó nhưng lại là rủi ro bộ phận đối với phạm vi toàn thế giới.

3/ Theo nguồn gốc phát sinh các rủi ro, có các loại rủi ro sau:

+ Rủi ro do các hiện tượng tự nhiên: đây là nguồn rủi ro cơ bản dẫn đến các rủi ro thuần tuý và để lại những hậu quả rất nghiêm trọng đối với con người. Nước lũ, nắng nóng, hoạt động của núi lửa,... Việc nhận biết các nguồn rủi ro này tương đối đơn giản nhưng việc đánh giá khả năng xảy ra cũng như mức độ xảy ra của các rủi ro xuất phát từ nguồn này lại hết sức phức tạp bởi vì chúng phụ thuộc tương đối ít vào con người, mặt khác khả năng biểu biết và kiểm soát các hiện tượng tự nhiên của con người còn hạn chế.

+ Rủi ro do môi trường vật chất: các rủi ro xuất phát từ nguồn này là tương đồi nhiều, chẳng hạn như hoả hoạn do bất cẩn, cháy nổ....

+ Rủi ro do các môi trường phi vật chất khác: Nguồn rủi ro rất quan trọng và làm phát sinh rất nhiều rủi ro trong cuộc sống chính là môi trường phi vật chất hay nói cụ thể đó là các môi trường kinh tê, xã hội, chính trị, pháp luật hoặc môi trường hoạt động của các tổ chức,... Đường lối chính sách của mỗi người lãnh đạo của quốc gia có tốc ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế (ban hành các chính sách kinh tế, áp dụng các quy định và thuế, cắt giảm hoặc xóa bỏ một số ngành nghề…). Quá trình hoạt động của các tổ chức có thể làm phát sinh nhiều rủi ro và bất định. Việc thay đổi tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lãi suất tín dụng, quan hệ cung - cầu trên thị trường, giá cả thị trường diễn biến bất ổn,... đều có thể đem lại rủi ro cho các tổ chức SXKD. Có rất nhiều rủi ro xuất phát từ môi trường phi vật chất này và các rủi ro cứ nối tiếp nhau diễn ra, rủi ro này được bắt nguồn từ rủi ro khác, rủi ro bắt nguồn từ môi trường chính trị dẫn đến các rủi ro về mặt kinh tế hay xã hội (chẳng hạn rủi ro do môi trường chính trị không ổn định dẫn đến rủi ro về mặt tinh tế (sản xuất đình đốn, hàng hoá đắt đỏ) và sau đó dẫn đến rủi ro về mặt xã hội (thất nghiệp). Để nhận biết các nguồn rủi ro này cần có sự nghiên cứu, phân tích tỷ mỷ, chi tiết và thận trọng. Mặt khác, việc đánh giá khả năng và mức độ xảy ra của các rủi ro xuất phát từ nguồn rủi ro phi vật chất cũng hết sức khó khăn với độ chính xác khác nhau, nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của người đánh giá.

Nhận xét: Các tổn thất phát sinh từ các nguồn rủi ro là rất nhiều và rất đa dạng. Một số tổn thất có thể phát sinh từ cả hai nguồn rủi ro khác nhau, chẳng hạn rủi ro cháy một ngôi nhà có thể do bất cẩn khi đun bếp (môi trường vật chất) nhưng cũng có thể do bạo động, đốt phá (môi trường chính trị).

Việc phân loại rủi ro theo các nguồn phát sinh giúp cho các nhà quán lý rủi ro tránh bỏ sót các thông rin khi phân tích đồng thời giúp cho việc lựa chọn các biện pháp phòng chống rủi ro sau này.

4/ Theo khả năng khống chế của con người: có thể chia ra rủi ro có thể khống chế và rủi ro không thể khống chế. Một số loại rủi ro khi xảy ra, con người không thể chống đỡ nổi. Thuộc loại này có các rủi ro do thiên tai, địch hoạ,...Tuy nhiên, đa số các rủi ro con người có thể chống đỡ hoặc có những biện pháp nhằm hạn chế được thiệt hại nếu có những nghiên cứu, dự đoán được khả năng và mức độ xây ra

5/ Theo phạm vi xuất hiện rủi ro có thể chia ra rủi ro chung và rủi ro cụ thể

+ Rủi ro chung là các rủi ro gắn chặt với môi trường chính trị, kinh tế và pháp luật.

Các rủi ro chính trị gồm có rủi ro về hệ thống chính trị, rủi ro chính sách thuế; rủi ro do cơ chế quản lý cấp vĩ mô; rủi ro về chế độ độc quyền; rủi ro do chính trị sách hạn chế nhập khẩu; rủi ro do không đạt được hoặc không gia hạn hợp đồng;…

Các rủi ro thương mại quốc gia gồm có rủi ro do lạm phát; rủi ro do tỷ lệ lãi suất thay đổi; rủi ro do sản phẩm hàng hoá mất giá; rủi ro do chính sách ngoại hối và đặc biệt ở Việt Nam còn có thể có rủi ro do không chuyển đổi được ngoại tệ;…

Các rủi ro gắn với môi trường pháp luật quốc gia gồm có rủi ro do thay đổi chính sách pháp luật và qui định; rủi ro về việc thi hành pháp luật; rủi ro do trì hoãn trong việc bồi thường;….

+ Rủi ro cụ thể là các rủi ro gắn liền với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh (SXKD) cụ thể hoặc lĩnh vực hoạt động khác. Đối với lĩnh vực SXKD xây dựng (XD) thể có các rủi ro theo các giai đoạn của quá trình đầu tư XD, các rủi ro đối với việc thực hiện và hoàn thành kế hoạch, các rủi ro trong quá trình vận hành.

Theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và XD, một tổ chức SXKD XD có thể gặp rủi ro vì đấu thầu; rủi ro về cấp phát vốn đầu tư (VĐT); rủi ro do sự phối hợp giữa tổ chức thiết kế, giám sát, cung cấp trang thiết bị với đơn vị thi công, không theo đúng kế hoạch tiến độ đã định; rủi ro trong thi công XD; rủi ro trong quá trình thanh quyết toán; ...

Đối với việc thực hiện và hoàn thành kế hoạch, tổ chức XD có thể gặp rủi ro do sự chậm trễ trong thi công và cung ứng các yếu tố sản xuất; rủi ro do phải phá đi làm lại; rủi ro do các nguyên nhân bất khả kháng …

Trong quá trình vận hành khai thác có thể có các rủi ro về trang bị cơ sở hạ tầng; rủi ro về kỹ thuật và công nghệ thi công; rủi ro về quản lý; rủi ro do tăng chi phí lưu thông; rủi ro do trình độ cán bộ công nhân vận hành khai thác; rủi ru do các nguyên nhân bất khả kháng; rủi ro trách nhiệm;…

Chúng ta có thể gặp rủi ro ở bất kỳ hoạt động nào liên quan đến con người, do đó hàng ngày chúng ta phải đưa ra những quyết định để làm thế nào có thế giải quyết được những rủi ro đó. Có thể có một số biện pháp:

- Tránh hoàn toàn mọi rủi ro.

- Hạn chế rủi ro bằng cách tiến hành nhưng biện pháp phòng ngừa.

- Chuyển giao hoặc san sẻ rủi ro sang các cá nhân hay tổ chức khác.

Với mọi biện pháp nhằm hạn chế rủi ro đều được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Chúng ta biết rằng hầu hết các rủi ro xảy ra đều mang tính ngẫu nhiên và bất ngờ đối với con người và sự vật, vì vậy việc chủ động tránh hoàn toàn mọi rủi ro là hầu như không thể thực hiện được đối với các cá nhân hay một tổ chức. Chẳng hạn, để tránh hoàn toàn rủi ro do tai nạn giao thông, một người nào đó có lúc không bao giờ đi ra đường cả nhưng điều đó lại hạn chế mọi hoạt động của người đó và có lẽ họ sẽ không thể thực hiện được việc tránh khỏi rủi ro bằng cách này. Vì thế, để hạn chế rủi ro người ta tìm cách quản lý các rủi ro đó, chủ yếu tập trung vào hai biện pháp: tiến hành các biện pháp phòng ngừa có thể hoặc san sẻ rủi ro sang các cá nhân hay tổ chức khác.

Vậy cá nhân có khả năng chấp nhận rủi ro khác nhau. Một số người có khả năng chấp nhận rủi ro cao và họ không tiến hành một biện pháp phòng ngừa nào cả vì họ tin rằng có ít rủi ro xảy ra với họ và họ có thể chấp nhận được. Một số người khác lại ít có khả năng chấp nhận rủi ro hơn và do họ cố gắng tiến hành mọi biện pháp phòng ngừa có thể như mua các loại bảo hiểm hoặc thực hiện mọi cách phòng ngừa rủi ro trong cuộc sống. Tuy nhiên, dù khả năng chấp nhận rủi ro của mỗi người khác nhau nhưng nói chung mọi người đều sợ rủi ro. Vì thế, việc chúng ta cố gắng nhận biết được mọi rủi ro có thể xảy ra và đánh giá được mức độ trầm trọng của rủi ro là việc làm hết sức quan trọng, hết sức cần thiết và không phải là một việc làm đơn giản....

Trên đây là 2 bài viết được trích trong SỔ TAY KỸ SƯ XÂY DỰNG
do PGS Lê Kiều biên soạn;
 bạn đọc quan tâm có thể liên hệ với Bộ môn Công nghệ và Quản lý xây dựng - Khoa Xây dựng DD&CN - Trường Đại học Xây dựng 
Phòng 307 - Nhà A1 - Trường Đại học Xây dựng
  hoặc liên lạc theo số 043.869.7349

Một số hình ảnh trong DVD SỔ TAY KỸ SƯ XÂY DỰNG

Sinh viên hỏi bộ môn trả lời

  • 1. Sinh viên hỏi:

    câu hỏi từ bạn: congthien.nuce54@gmail.com

     Thưa thầy cô, hiện tại em đang làm đồ án thi công 1, và ở phần chọn máy thi công em đang băn khoăn chưa chọn được máy cẩu tháp nào phù hợp bởi vì khối lượng bê tông quá lớn mà các máy hiện có trong các sổ tay máy cũ không đạt yêu cầu.Cho nên hiện e đang cần catalog của một số loại cẩu tháp chạy trên ray và máy trộn bê tông những loại mới nhất hiện nay. Em xin cảm ơn ạ!

    Bộ môn Trả lời:

    Em hãy lập biện pháp kỹ thuật và tổ chức thi công theo các loại cần trục tháp và máy trộn bê tông mà em có thể biết hiện có ở Việt Nam.

     

    2. Sinh viên hỏi:

    Câu hỏi từ bạn: hùng <hanhieuvi0112@gmail.com">hanhieuvi0112@gmail.com>

    kính thưa bộ môn,nhóm làm đồ án tốt nghiệp 53xd3 được nhà trường phân thầy Lê Thế Thái hướng dãn phần thi công.hiện tại bọn em đã xong phần kết cấu.liên hệ với thầy thì thầy bảo tất cả các nhóm tự liên hệ với bạn Tuấn Anh.thực sự bọn em đã lên hỏi bộ môn,phòng đào tạo,tìm ai tên là tuấn anh nhưng k có thông tin gì cả.tất cả đều là tự liên hệ với thầy để nhận đề tài.kính mong bộ môn hồi âm để bọn em được nhận sự hướng dẫn của thầy ạ

    Bộ môn Trả lời:

     Em hãy liên hệ với thầy Lê Thế Thái và đề nghị với thầy bố trí làm việc với các em.

     3. Sinh viên hỏi:

     Câu hỏi từ bạn: Đặng Thành Luân <thanhluanxd7@gmail.com">thanhluanxd7@gmail.com>

    Em xin hỏi thày cô, khi hạ mực nước ngầm có sử dụng được bằng phương pháp bấc thấm được ko ạ? Và nếu sử dụng được thì nguyên lý tính toán và trình tự tính thế nào ạ?
    Mong thày cô có thể cho tiêu đề các tài liệu, hoặc cho em xin tài liệu về phương pháp bấc thấm ( Nếu có công trình đã sử dụng thì rất tốt ạ)?
    Chúc thày cô mạnh khỏe - Hạnh phúc - Thành đạt!

    Bộ môn Trả lời:

     Bấc thấm là biện pháp để gia cố nền chứ không phải để hạ mực nước ngầm, em nên tìm hiểu kỹ lại nguyên lý của phương pháp này.

      4. Sinh viên hỏi:

    Câu hỏi từ bạn:lưu bá vũ <luubavudexauxa@gmail.com">luubavudexauxa@gmail.com>

    các thầy cô cho em hỏi.định mức giờ công trong thống kê lắp đặt ván khuôn lấy như thế nào?

     Bộ môn Trả lời:

    Em có thể tìm hiểu tất cả các định mức lao động mà Nhà nước ViệtNam đã ban hành.

    Nếu muốn tìm hiểu chi tiết hơn thì em xem định mức 726

    Chúc các em sức khỏe và học tập tốt.

    Ban chủ nhiệm Bộ môn CN&QLXD


     


  • Sinh viên hỏi:

    nguyenquyenxd113@gmail.com

    em chào thầy! thầy có thể cho em hỏi là: thực trạng về cơ sở pháp lý của công tác giám sát thi công công trình xây dựng không ạ?

    em cám ơn thầy nhiều ạ!!

    Bộ môn trả lời:

    Giám sát thi công là do các cơ quan tư vấn giám sát thực hiện. Muốn làm công việc đó ( giám sát tư vấn ) yêu cầu phải có chứng chỉ tư vấn giám sát và giấy phép hành nghề tư vấn giám sát

    Chúc bạn sức khỏe - học tập tốt!

    Ban chủ nhiệm Bộ môn

  • Câu hỏi:
    Em chào thầy!
    Em muốn nhờ thầy giúp đở em về học tập.
    Vậy em có thể gặp thầy Nguyễn Đình Thám vào thời gian nào trong tuần ạ!
    Em xin cảm ơn thầy!

    Bộ môn trả lời:
    Trả lời câu hỏi của bạn Phan Văn Hoàng - lớp 52KSCT.

    Bộ môn rất hoan nghênh tinh thần học tập của em.
    Em có thể liên hệ trực tiếp với thầy Nguyễn Đình Thám , cũng như các thầy khác trong Bộ môn qua số điện thoại của các thầy đã đăng trên website
    Chúc em học tập tốt!
    Ban chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ và Quản lý Xây dựng.

Liên kết Website

Dự án xây dựng

Số lượng truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay65
mod_vvisit_counterHôm qua1129
mod_vvisit_counterTuần này8420
mod_vvisit_counterTất cả7739896

Đang trực tuyến:  11