1. Khái niệm:

 

Nhật bản mấy ngày qua trải qua một trận động đất lớn nhất trong vũng 140 năm qua.

Động đất , hiện tượng rung động đột ngột mạnh của vỏ trái đất do sự dịch chuyển các mảng thạch quyển hoặc các đứt gãy trong vỏ trái đất và được truyền qua những khoảng cách lớn dưới các dạng dao động đàn hồi. Động đất chủ yếu liên quan với nội lực kiến tạo. Đại đa số động đất xảy ra ở đới hút chìm các mảng thạch quyển hoặc ở dọc các đứt gãy sâu. Nhưng cũng có loại động đất do ngoại lực như sự trượt lở đất đá với khối lượng lớn hoặc sự mất cân bằng trọng lực ở những nơi có hồ chứa nước lớn và sâu nhân tạo . Nơi phát sinh dịch chuyển của động đất được gọi là chấn tiêu hoặc lò động đất. Nối tâm trái đất với chấn tiêu qua lên mặt đất, đường này gặp mặt đất tại nơi được gọi là chấn tâm. Khoảng cách từ chấn tâm đến chấn tiêu được gọi là độ sâu chấn tiêu, ký hiệu là H. Khoảng cách từ chấn tiêu đến trạm quan sát ( trạm đặt máy hay chân công trình ) được gọi là tiêu cự D, khoảng cách từ chấn tâm đến trạm quan sát gọi là tâm cự D. Cường độ động đất ở mặt đất xác định theo thang động đất hoặc bằng đại lượng manhitut ( magnitude ).

            Động đất trên thế giới thường tập trung ở hai đới: đới vòng quanh Thái Bình Dương và đới Địa Trung Hải qua Himalaya vòng xuống Malaixia. Hai đới này cũng là nơi tập trung nhiều núi lửa đã tắt và đang hoạt động. Động đất ở Chilê 1960 là động đất mạnh nhất ( 8,9 độ Richter) có năng lượng lớn gấp trăm lần năng lượng quả bom nguyên tử đã nổ ở Hirosima. Tại Việt nam, động đất chủ yếu tập trung ở phía trũng Hà nội, dọc theo sông Hồng, sông Chảy, sông Đà, sông Cả, ven biển Nam Trung bộ. Động đất ở Điện Biên Phủ (1-11-1935) đạt tới 6,75 độ Richter, cấp 8-9 thang động đất, độ sâu chấn tiêu là 25 km. Động đất ở Tuần giáo ( Lai Châu) , xảy ra ngày 24-6-1989 đạt 6,7 độ Richter, cấp 8-9 , độ sâu chấn tiêu là 23 Km.

            Nhiều nguyên nhân của sự phát sinh ra khối năng lượng gây ra động đất như hang động bị xập, các mảnh thiên thạch va vào trái đất, các vụ thử bom hạt nhân ngầm dưới đất, nhưng nguyên nhân cơ bản là sự chuyển động tương hỗ không ngừng của các khối vật chất nằm sâu trong lòng đất để thiết lập một thế cân bằng mới , thường được gọi là vận động kiến tạo. Động đất xảy ra do hậu quả của vận động kiến tạo được gọi là động đất kiến tạo. Theo thống kê, 95% các trận động đất trên thế giới có liên quan trực tiếp đến vận động kiến tạo.

Theo thuyết kiến tạo vỏ trái đất, thạch quyển là lớp cứng được tạo chủ yếu là các quần thể đá giàu nguyên tố Si và Mg nên gọi tắt là Sima còn bên trên nó được gắn các lục địa rải rác do các quần thể đá giàu chất Si và Al nên gọi tắt là Sial tạo nên. Bề dày thạch quyển khoảng 70 km ở biển và 140 km dưới các lục địa. Tuy bao trùm toàn bộ vỏ trái đất nhưng thạch quyển không phải là lớp có bề dày đồng đều mà có dạng kiến trúc phân mảng bởi các vết đứt sâu xuyên thủng. Dưới thạch quyển là lớp dung nham lỏng, dẻo ở nhiệt độ cao. Thực tế này làm cho các mảng có sự chuyển dịch tương đối với nhau và dĩ nhiên những lục địa bám trên mình nó cũng dịch chuyển theo ( thuyết lục địa trôi nổi). Ngày nay tồn tại 11 vĩ mảng mang tên : Á Âu , Ấn Úc, Thái bình dương, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Phi, Nam Cực, Philippin, Cocos, Caribê, và Nazca. Các mảng lớn lại được phân chia thành các mảng nhỏ qua các vết đứt gãy nông hơn.

            Có năm dạng chuyển động tương đối giữa các mảng khi động đất là : các mảng tách xa nhau ra, các mảng dũi ngầm xuống sâu , các mảng trườn lên nhau, các mảng va vào nhau, các mảng rúc đồng qui vào nhau. Trong 5 loại này, các chuyển động dũi và trườn tạo động đất mạnh hơn cả.

 

Thí dụ trận động đất ở Kobê, Nhật bản , tháng Giêng năm 1995 được mô tả chuyển động của các mảng theo hình kèm đây.


Ta quan sát trận động đất năm nay ( 2011) , nếu lấy Tokyo làm tâm thì thấy vị trí trận động đất năm nay đối xứng với trận động đất năm 2005 qua Tokyo và cũng nằm trên hào đứt gãy Nhật Bản.

Khi xảy ra động đất, quá trình chuyển động trượt tương đối giữa các khối vật chất không chỉ vận động cơ học đơn giản mà còn có cả sự tích luỹ thế năng biến dạng hoặc kèm chuyển hoá năng lượng, năng lượng từ trạng thái này sang trạng thái khác dẫn đến sự tích tụ năng lượng ở những vùng xung yếu nhất định trong lòng đất. Khi năng lượng tích tụ đến giới hạn nào đó , không còn thế cân bằng với môi trường chung quanh nên thoát ra dưới dạng thế năng chuyển sang động năng và gây ra động đất. Các điểm tích tụ năng lượng , điểm chấn tiêu, nằm sâu trong lòng đất từ 5 km đến 70km. Trận động đất ở Tuần giáo ( 1983) có độ sâu H = 32 km. Một số trận động đất khác H = 70 km ~ 300 km. Các trận động đất mạnh thường ở độ sâu 30 km ~ 100 km.

2. Đánh giá cường độ động đất :

Có thể dựa vào hoặc hậu quả của nó, hoặc năng lượng gây ra trận động đất ấy. Trong vòng 200 năm qua trên thế giới đã đề nghị khoảng 50 loại thang phân cấp đo cường độ động đất. Các thang sau đây được nhiều nước sử dụng :

 

Thang Mercalli cải tiến:

Năm 1902 G. Mercalli ( Giuseppe Mercalli , người Ý, 1850-1914 ) đề ra thang đo cường độ động đất 12 cấp. Năm 1931 Wood và Newmann bổ sung nhiều điều cho thang 12 cấp này và thang này được mang tên MM. Thang MM đánh giá độ mạnh của động đất dựa vào hậu quả của nó tác động lên con người, đồ vật và các công trình xây dựng. Thang chia thành 12 cấp, từ cấp I đến IV là động đất yếu, từ cấp V đến VI đã tác động đến giác quan con người, đánh thức người ngủ, đèn treo trên trần nhà lay động, nhà cửa rung nhẹ và có chút ít thiệt hại. Động đất cấp VII làm cho người phải bỏ chạy khỏi nhà, hư hỏng từ nhẹ đến vừa với nhà bình thường và làm hỏng nặng nhà mà khâu thiết kế và thi công kém. Một số ống khói bị đổ. Cấp VIII làm hư hỏng hàng loạt công trình, ngay những nhà được thiết kế và thi công tốt.Panen sàn rời khỏi dầm đỡ. Gọi là động đất cấp IX và cấp X là động đất làm đổ hầu hết các nhà. Động đất cấp XI gây thiệt hại trên phạm vi lớn. Cấp XII mang tính huỷ diệt kèm theo sự thay đổi địa hình nơi có động đất.

 

Thang MKS-64 :

Thang MSK-64 năm 1964 được Medvedev và Sponheuer và Karnic đề xuất để đánh giá động đất ảnh hưởng đến công trình xây dựng. Cường độ động đất được đánh giá qua hàm số chuyển dời cực đại của con lắc tiêu chuẩn có chu kỳ dao động riêng T = 0,25 s. Thang KSK-64 cũng có 12 cấp và quan hệ giữa cấp MSK-64 với phổ biên độ của con lắc tiêu chuẩn như bảng sau:

 

 

MSK-64

 

 

Phổ biên độ

(mm)

 

5

6

7

8

9

10

 

 

0,5~1,0

1,1~2,0

2,1~4,0

4,1~8,0

8,1~16,0

16,1~32,0

 

Thang Richter:

Thay cho việc đánh giá cường độ động đất thông qua hậu quả của nó, năm 1935 , Richter, kỹ sư địa chấn người Hoa kỳ( Charle Francis Richter , 1900-1985 ) đưa ra thang đo cường độ động đất bằng cách đánh giá gần đúng năng lượng được giải phóng ở chấn tiêu. Ông đưa ra định nghĩa , độ lớn M ( Magnitude ) của một trận động đất bằng logarit thập phân của biên độ cực đại A ( mm ) ghi được tại một điểm cách chấn tâm D = 100 km trên máy đo địa chấn có chu kỳ dao động riêng T = 0,8 sec.

                                                M = log A

Quan hệ giữa năng lượng E ( ergi) được giải phóng ở chấn tiêu với magnitude được xác định theo công thức:

 

                                    Log E = 9,9 + 1,9 M - 0,024 M2

 

Tính toán theo công thức này, thu được :

 

M

5

6

6,5

7

7,5

8

8,6

E

0,08x1020

2,5x1020

14,1x1020

80x1020

46x1020

2000x1020

20000x102

 

Về mặt lý thuyết , thang M bắt đầu từ 0 và không có giới hạn trên, nhưng thực tế chưa bao giờ đo được trận động đất nào có M đạt đến 9. Trận động đất mạnh tại Columbia ( 30-11-1906 ) và tại Sanricum, Nhật bản ( 2-3-1933) cũng chỉ đạt tới 8,9.

 

            Độ sâu của chấn tiêu ảnh hưởng rất lớn trong tương quan giữa thang M và thang MM. Trận động đất có thang M=8 nhưng sâu H>100 km thì ảnh hưởng của nó khá rộng nhưng hậu quả lại không đáng kể. Có trận động đất tại Maroc M = 5,75 nhưng H = 3 km đã gây ra cường độ động đất tới cấp XI ở vùng chấn tâm.

 

Thang năng lượng Richter có 7 bậc đánh số từ 2 đến 8 độ Richter. Giữa thang Mercalli cải tiến và thang Richter có quan hệ như sau:

 

Thang Richter M

Thang Mercalli cải tiến MM

 

2

3

4

5

6

7

8

 

 

I~II

III

IV~V

VI~VII
VII~VIII
IX~X
XI

 

Năm 1981, Viện Kiến trúc Nhật bản đã thiết lập mối quan hệ giữa thang MM , MSK-64 và đặt ra thang đo động đất JMA của Nhật bản mà thang này gồm 8 cấp với gia tốc cực đại của nền đất W, cm/s2 như bảng sau:

 

MM

0

I

II  

III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

MSK

64

   I

II

III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

JMA

0

I

II

     III

   IV

     V

VI

     VII

Wcm/s2

   0,5   1     2           5     10   20         50       100   200                 500       1000

 

Các nước thường dùng song song hai thang là thang Mercalli cải tiến và thang năng lượng Richter nên chúng ta hay thấy nói trận động đất mạnh cấp mấy và có mấy độ Richter. Mạnh cấp mấy , hay được hiểu theo cấp của thang Mercalli cải tiến và độ Richter là theo thang Richter.

 

Vào hồi 22h52 ngày 19-02-2001 trên địa bàn tỉnh Lai Châu xảy ra trận động đất gây nên nhiều đợt chấn động ngắn kéo dài đến 6 giờ sáng ngày 20-02-2001. Theo báo cáo của Trung tâm Địa chấn, trận động đất lúc 22h52 mạnh 5,3 độ Richter, sau đó lúc 1h24 ngày 20-02-2001 chấn động mạnh 3,8 độ Richter, lúc 2h04 ngày 20-02-2001 chấn động mạnh 4,3 độ Richter sau đó còn một số đợt chấn động khác với cường độ nhẹ. Tâm động đất cách thị xã Điện Biên Phủ 20 km về phía Tây ở toạ độ 21,4 vĩ độ Bắc; 120,8 độ kinh Đông, độ sâu 12 km.

 

Do chấn tâm cách thị xã Điện Biên khoảng 20 km nên tác động không mạnh. Nhà cửa hư hỏng chút ít và không có nhà xập. Về thiết kế kết cấu ngôi nhà đã làm tại Điện Biên    còn phải rút kinh nghiệm vì hầu như ít nhà làm kiểu khung bê tông cốt thép. Chỉ có một vài ngôi nhà làm kiểu khung không hoàn chỉnh và phần lớn là nhà tường gạch chịu lực được xây với mác vữa rất thấp.

            Nước ta hầu hết các trận động đất ghi lại được thì chấn tâm đều nằm tập trung ở phía Bắc, dọc theo các vết đứt gãy địa chất vùng sông Chảy, sông Hồng, sông Đà , sông Mã , sông Cả... Theo số liệu mà tập Quy chuẩn Xây dựng Việt nam ( tập III ) cung cấp thì vùng dự báo chấn động cực đại là 8 độ MSK-64, nghĩa là tương đương độ 5~6 Richter. Những năm qua mới ghi được tại nước ta cực đại là 6,75 độ Richter nhưng phần lớn vào thời điểm động đất, những vùng có ảnh hưởng của động đất mật độ nhà thưa thớt nên thiệt hại không đáng kể.

Trưa 26-11-2009, động đất cường độ 4,1 độ richter đã xảy ra ở huyện Bắc Yên (Sơn La), cách công trình thủy điện Sơn La 37 km. Nhiều cao ốc tại Hà Nội, người dân cũng cảm nhận được dư chấn.

Chấn động được ghi nhận vào lúc 11h 47 phút 35 giây (giờ Hà Nội). Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần, thì tâm chấn nằm ở độ sâu 10-15 km, cách thành phố Sơn La 38 km về phía Đông Đông Nam và cách công trình thủy điện Sơn La 37 km về phía Đông Nam.

Theo thang chấn động MSK, trận động đất này được Trung tâm xếp ở cấp 4, tức là "rung động yếu", còn thủ đô Hà Nội chỉ cấp 2-3. Theo Trung tâm vẫn chưa ghi nhận được thiệt hại cụ thể cũng như chưa có đánh giá tác động đối với các công trình xây dựng như thủy điện Sơn La. "Chúng tôi đang tiếp tục theo dõi, đặc biệt là dư chấn của trận động đất", ông Minh nói.

Trao đổi với VnExpress.net, ông Vũ Đức Thìn, Ủy viên Hội đồng quản trị tập đoàn điện lực Việt Nam (nguyên Trưởng ban quản lý dự án thủy điện Sơn La) cho biết, ông đã nhận được thông báo của Viện Vật lý địa cầu. Tuy nhiên, theo ông Thìn, dù đang ở Mường La, ngay cạnh công trình thủy điện nhưng ông và mọi người không cảm nhận được rung động từ trận động đất.

Ông Thìn khẳng định, với cường độ xấp xỉ 4 độ richter, trận động đất không gây ảnh hưởng gì tới thủy điện Sơn La. Địa điểm xây dựng công trình được tính toán kỹ cả về khu vực, phân vùng động đất cũng như sức chịu đựng các chấn động.

"Thủy điện Sơn La lúc thiết kế có sự tham gia của các chuyên gia Viện Vật lý địa cầu. Công trình đã thực nghiệm kiểm tra với chấn động trên cấp 8 thang MSK (cường độ trên 6,7-6,8 độ richter) thì công trình vẫn an toàn".

Theo thống kê, ở Việt Nam có 30 khu vực có thể phát sinh động đất, trong đó có 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP HCM. Mức chấn động mạnh nhất lên tới 6,8 độ richter, đủ để đánh sập nhà cửa.

Giáo sư Cao Đình Triều, Viện Vật lý địa cầu cho biết, Việt Nam nằm trong khu vực có hoạt động địa chất và đứt gãy mạnh. Động đất ở nước ta thỉnh thoảng mới xuất hiện nhưng diễn biến khá phức tạp. Một số trận có cường độ mạnh như ở Điện Biên năm 1935 (6,7 độ richter), Tuần Giáo - Lai Châu năm 1983 (6,8 độ richter)...

Gần đây nhất, ngày 12-13/5/2008, Việt Nam cũng ghi nhận hàng chục dư chấn mạnh 5 độ richter do trận động đất tại Tứ Xuyên (Trung Quốc), hàng loạt người dân ở các tòa nhà cao ốc ở Hà Nội nhốn nháo vì những chấn động này

Theo bản đồ phân vùng động đất Việt Nam, tại nước ta có thể xảy ra động đất mạnh cấp 8- 9 theo thang cấp động đất quốc tế MSK.

            Tại Ấn độ trận động đất tháng 22 tháng Giêng năm 2001chỉ có 6,8 độ Richter mà đổ hàng trăm ngàn ngôi nhà và làm chết khoảng 20.000 người , làm bị thương nặng đến 20.000 người nữa.

            Nếu với độ sâu chấn tiêu chừng 30 km, và đô thị cách chấn tâm trên 20 km có thể tham khảo một số kinh nghiệm tổng kết của kinh nghiệm trong cấu tạo các chi tiết nhà sau khi sơ kết những trận động đất lớn như tại Osaka ( 17 tháng Giêng năm 1995; 7,2 độ Richter ):

(i) Nhà khung bê tông cốt thép chịu lực kháng chấn tốt hơn nhà tường gạch chịu lực.

(ii) Nhà khung bê tông cốt thép, tại nút khung nên bố trí thép đai trong nút khung , đai phân bố theo chiều cột khung, việc tránh được nứt ở nút khung tốt. Khoảng cách đai 50 mm , đai F8.

 

(iii) Giữa tường chèn và khung cần bố trí những thanh thép râu cắm từ trong cột khung để câu với tường mà khoảng cách giữa các râu không lớn quá 5 hàng gạch. Nối giữa hai cốt râu ở hai đầu tường là thanh thép chạy theo chiều dài tường. Đường kính thép râu F8 . Mạch chứa râu thép phải xây bằng vữa xi măng không có vôi và #100. Nên đặt râu thép này khi đặt cốt thép cột, để ép vào mặt cốp-pha, sau khi rỡ cốp-pha sẽ cậy cho thép này bung ra để cắm vào các lớp tường xây chèn.. Nếu quên có thể khoan lỗ sâu 100 mm vào cột khung rối nhét thép vào sau nhưng nhớ lấp lỗ chèn bằng vữa có xi măng trương nở ( sikagrout ).

(iv) Với những nhà tường gạch chịu lực phải xây bằng vữa có xi măng và chất lượng vữa không nhỏ hơn #25. Cần đảm bảo độ câu giữa những hàng gạch. Không xây quá ba hàng dọc mới đến một hàng ngang và nên xây theo kiểu chữ công.

(v) Trong một bức tường nên có ít nhất hai hàng giằng tại cao trình bậu cửa sổ, cao trình lanh tô cửa. Giằng bằng bê tông cốt thép #200 có 2 cốt dọc F8 và đai nối 2 thanh cốt dọc này. Cốt thép đặt giữa giằng.

            Nhiều công trình hư hỏng do xuất hiện lực cắt lớn trong dầm và cột khung. Những phá hoại loại này thường xảy ra tại phần cột sát ngay mức trên sàn. Lý do là các chi tiết ở quanh nút khung chưa đủ độ cứng. Với cột , ta thấy chưa có cấu tạo chống với lực cắt ở vùng gần chân cột. Cần thiết kế lưới ốp quanh chân cột. Những thanh thép dọc âm qua gối cột của dầm , nên uốn móc 135o.

            Nhà nhiều tầng bị động đất hay dập nát cột ở tầng trệt và tầng trên sát tầng trệt vì cả khối nhà bị xoắn. Lý do là tầng trệt thường phải làm thoáng cho phòng đón tiếp, garage nên không bố trí sườn gia cường cột. Cũng hay thấy cột bị dập ở sát chân những tầng giảm độ cứng theo chiều cao nhà. Những vị trí vừa nêu , chân cột cần gia cường chống xoắn.

            Để kháng chấn tốt, nên dùng cốt thép vằn ( thép gai, thép gờ) vì ở Kobê cho thấy nhiều nhà mà kết cấu dùng thép trơn thường bị phá hỏng.

Những hư hỏng thường do xuất hiện lực cắt lớn trong dầm và cột khung. Vị trí nơi phá hoại thường xảy ra tại phần cột sát ngay mức trên sàn. Nên làm lưới thép nhỏ ốp quanh chân cột , cột sẽ tăng độ cứng nhiều. Thép dọc chịu mômen âm dù là cốt vằn cũng nên uốn móc 135o, mà nhiều tiêu chuẩn cho rằng với thép vằn không cần uốn móc.

            Nước ta , Bộ Xây dựng đó ban hành tiêu chuẩn TCXDVN 375-2006," thiết kế công trình chịu động đất ".

Tại những địa danh đến cấp huyện, quận, trong phụ lục số 1 của tiêu chuẩn này cho biết trị số gia tốc nền. Từ trị số gia tốc nền này mà biết nơi nào ( huyện, quận ) phải tính toán và cấu tạo kết cấu chống động đất, nơi nào chỉ cần cấu tạo mà không phải tính, nơi nào không cần kể đến ảnh hưởng của động đất.

Chủ đầu tư của các dự án phải biết và nhận thức đầy đủ về vấn đề công trình chịu động đất mà yêu cầu bên tư vấn thiết kế thực hiện. Bên thẩm định thiết kế cũng phải kiểm tra bên thiết kế phải tuân theo TCXDVN 375-2006 về " thiết kế công trình chịu động đất". Đây là trách nhiệm và nghiệp vụ quản lý dự án./.

                                                                                                            LK.


Sinh viên hỏi bộ môn trả lời

  • 1. Sinh viên hỏi:

    câu hỏi từ bạn: congthien.nuce54@gmail.com

     Thưa thầy cô, hiện tại em đang làm đồ án thi công 1, và ở phần chọn máy thi công em đang băn khoăn chưa chọn được máy cẩu tháp nào phù hợp bởi vì khối lượng bê tông quá lớn mà các máy hiện có trong các sổ tay máy cũ không đạt yêu cầu.Cho nên hiện e đang cần catalog của một số loại cẩu tháp chạy trên ray và máy trộn bê tông những loại mới nhất hiện nay. Em xin cảm ơn ạ!

    Bộ môn Trả lời:

    Em hãy lập biện pháp kỹ thuật và tổ chức thi công theo các loại cần trục tháp và máy trộn bê tông mà em có thể biết hiện có ở Việt Nam.

     

    2. Sinh viên hỏi:

    Câu hỏi từ bạn: hùng <hanhieuvi0112@gmail.com">hanhieuvi0112@gmail.com>

    kính thưa bộ môn,nhóm làm đồ án tốt nghiệp 53xd3 được nhà trường phân thầy Lê Thế Thái hướng dãn phần thi công.hiện tại bọn em đã xong phần kết cấu.liên hệ với thầy thì thầy bảo tất cả các nhóm tự liên hệ với bạn Tuấn Anh.thực sự bọn em đã lên hỏi bộ môn,phòng đào tạo,tìm ai tên là tuấn anh nhưng k có thông tin gì cả.tất cả đều là tự liên hệ với thầy để nhận đề tài.kính mong bộ môn hồi âm để bọn em được nhận sự hướng dẫn của thầy ạ

    Bộ môn Trả lời:

     Em hãy liên hệ với thầy Lê Thế Thái và đề nghị với thầy bố trí làm việc với các em.

     3. Sinh viên hỏi:

     Câu hỏi từ bạn: Đặng Thành Luân <thanhluanxd7@gmail.com">thanhluanxd7@gmail.com>

    Em xin hỏi thày cô, khi hạ mực nước ngầm có sử dụng được bằng phương pháp bấc thấm được ko ạ? Và nếu sử dụng được thì nguyên lý tính toán và trình tự tính thế nào ạ?
    Mong thày cô có thể cho tiêu đề các tài liệu, hoặc cho em xin tài liệu về phương pháp bấc thấm ( Nếu có công trình đã sử dụng thì rất tốt ạ)?
    Chúc thày cô mạnh khỏe - Hạnh phúc - Thành đạt!

    Bộ môn Trả lời:

     Bấc thấm là biện pháp để gia cố nền chứ không phải để hạ mực nước ngầm, em nên tìm hiểu kỹ lại nguyên lý của phương pháp này.

      4. Sinh viên hỏi:

    Câu hỏi từ bạn:lưu bá vũ <luubavudexauxa@gmail.com">luubavudexauxa@gmail.com>

    các thầy cô cho em hỏi.định mức giờ công trong thống kê lắp đặt ván khuôn lấy như thế nào?

     Bộ môn Trả lời:

    Em có thể tìm hiểu tất cả các định mức lao động mà Nhà nước ViệtNam đã ban hành.

    Nếu muốn tìm hiểu chi tiết hơn thì em xem định mức 726

    Chúc các em sức khỏe và học tập tốt.

    Ban chủ nhiệm Bộ môn CN&QLXD


     


  • Sinh viên hỏi:

    nguyenquyenxd113@gmail.com

    em chào thầy! thầy có thể cho em hỏi là: thực trạng về cơ sở pháp lý của công tác giám sát thi công công trình xây dựng không ạ?

    em cám ơn thầy nhiều ạ!!

    Bộ môn trả lời:

    Giám sát thi công là do các cơ quan tư vấn giám sát thực hiện. Muốn làm công việc đó ( giám sát tư vấn ) yêu cầu phải có chứng chỉ tư vấn giám sát và giấy phép hành nghề tư vấn giám sát

    Chúc bạn sức khỏe - học tập tốt!

    Ban chủ nhiệm Bộ môn

  • Câu hỏi:
    Em chào thầy!
    Em muốn nhờ thầy giúp đở em về học tập.
    Vậy em có thể gặp thầy Nguyễn Đình Thám vào thời gian nào trong tuần ạ!
    Em xin cảm ơn thầy!

    Bộ môn trả lời:
    Trả lời câu hỏi của bạn Phan Văn Hoàng - lớp 52KSCT.

    Bộ môn rất hoan nghênh tinh thần học tập của em.
    Em có thể liên hệ trực tiếp với thầy Nguyễn Đình Thám , cũng như các thầy khác trong Bộ môn qua số điện thoại của các thầy đã đăng trên website
    Chúc em học tập tốt!
    Ban chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ và Quản lý Xây dựng.

Liên kết Website

Dự án xây dựng

Số lượng truy cập

mod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_countermod_vvisit_counter
mod_vvisit_counterHôm nay610
mod_vvisit_counterHôm qua2478
mod_vvisit_counterTuần này610
mod_vvisit_counterTất cả7734564

Đang trực tuyến:  12